Mục đích của cá nhân tôi khi ngồi thiền có thể tóm tắt bằng mấy gạch đầu dòng sau
Lúc nhỏ tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, không có gì thú vị hơn việc được chạy chơi ở ngoài trời. Mẹ tôi từng kể có những ngày trưa nóng, tôi vẫn ra ngoài mảnh vườn nhỏ của ông nội để nghịch nước với lũ cá cảnh. Như hầu hết trẻ con tôi thích các trò nghịch ngợm hơn ngồi một chỗ. Năm lớp 1 là khoảng thời gian chuyển giao khó khăn nhất khi tôi phải làm quen với việc ngồi một chỗ để học chữ và học tính. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác ngứa ngáy bên trong đầu móng tay khi phải ngồi tập viết chính tả. Bố tôi xử lý việc này bằng đòn roi mỗi khi tôi đạt điểm kém hay bị thầy cô phê bình. Một điều vô lý khác là quy tắc 9h - tôi không được rời bàn học trước 9h tối. Những ngày tháng đó không phải là kỷ niệm đẹp nhất nhưng là những bài học quan trọng. Tuy nhiên bài học quan trọng nhất về tập trung thì tôi vẫn chưa học được. Một câu chuyện thú vị, một ý tưởng hay hoặc một hình ảnh đẹp có thể khiến tâm trí của tôi mộng mơ. Những ngày lớp 9 khi lần đầu tiên có máy vi tính, tôi cảm thấy cả thế giới thú vị mở ra mang tôi thoát khỏi thực tế ảm đạm. Tôi từng ngồi nhiều giờ trước máy tính, đọc truyện, xem phim, nghe nhạc,… Ngay cả với Internet đầu những năm 2000, một chân trời giải trí vô tận cuốn tôi đi mỗi lần mà lẽ ra tôi cần học bài. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không thể dành 100% đầu óc cho công việc khi có những bản nhạc có tiếng ca sĩ hát. Có người nói rằng tôi bị tăng động, có lẽ điều đó là đúng vì một vài năm trước khi tôi khám phá ra chạy bộ và luyện tập thường xuyên, khả năng tập trung của tôi được cải thiện. Thiền cũng là một phương pháp để luyện tập sự tập trung. Theo như giáo sư Hubberman có nói đến một nghiên cứu trong podcast số 96 về thiền, người ngồi thiền không hẳn là có thể giữ sự tập trung cố định lâu mà là người có khả năng quay trở lại chủ đề của họ nhanh chóng hơn người thường rất nhiều. Điều này cũng tương đồng với lối thiền Minh Sát (Vipassana) mà tôi được làm quen từ GS John Vervaeke. Hiện tại khi học thiền cùng huynh đệ Trúc Lâm, vẫn có một sự khác biệt nhỏ giữa tôi và mọi người. Đó là khi Sổ tức (theo dõi số đếm) và Tuỳ tức (theo dõi hơi thở), nếu vọng tâm nổi lên, tôi vẫn sẽ áp dụng kỹ thuật gọi tâm quay trở lại như trong clip hướng dẫn của GS. Tôi đoán rằng đây là “Chánh ngữ” để gọi tâm trí quay về.
Hạnh phúc theo ý tôi là tiền đề của khổ đau. Như lúc nhỏ tôi thích ăn kẹo vì vị ngọt ngào của kẹo đem lại hạnh phúc cho tôi. Nhưng khi tôi bị từ chối kẹo từ bố mẹ, bị nhử kẹo từ anh em bạn bè hay bị ăn đòn vì kẹo thì tôi lại đau khổ. Hạnh phúc của kẹo ngọt biến thành khổ đau
Khi lớn hơn, tôi hiểu hơn về điều này có lẽ rõ ràng nhất là khi đọc cuốn “Thinking fast and slow” của Daniel Kahneman, cụ thể là Chương 5: “The two selves”. Con người có một loại thiên kiến gọi là “thiên kiến quen thuộc” được sinh ra để phục vụ khả năng thích nghi. Nếu như một bệnh nhân ung thư chỉ đau khổ trong một vài tuần đầu tiên khi nhận được tin mắc bệnh thì chiều ngược lại cũng đúng. Những hạnh phúc và sung sướng cũng sẽ chỉ thoả mãn con người trong một thời gian ngắn. Khả năng thích nghi của cơ thể chính là con dao hai lưỡi, giúp con người thoát khỏi vực thẳm tuyệt vọng và cướp đi hạnh phúc vĩnh hằng. Những ai rơi vào cạm bẫy hạnh phúc sẽ chịu đau khổ to lớn khi những niềm hạnh phúc mà họ cho là nghiễm nhiên được hưởng thụ như một gia đình hạnh phúc, một tình yêu đẹp, một sự nghiệp vững vàng, một sức khoẻ dồi dào… đột ngột biến mất. Khi mất đi nguồn hạnh phúc, tôi đã tự hỏi mình rằng tại sao Hưng lúc này lại đau khổ hơn Hưng khi chưa có được nguồn hạnh phúc đó. Nhiều năm sau tôi đã tìm ra cho mình câu trả lời bên trên. Sau đó tôi tìm cho mình con đường thoát khỏi vòng luẩn quẩn của hạnh phúc và đau khổ. Thiền là một trong những con đường đó.
Sự sáng trí là một niềm mong mỏi của một kẻ chậm chạp về trí tuệ như tôi. Mọi người đều biết rằng khi già đi, sự nhạy bén về trí tuệ sẽ càng ngày càng giảm. Nhưng đôi khi đứng trước một vấn đề, mọi thứ như sáng lên trong tôi. Theo thời gian tôi học được kỹ thuật “thinking out loud” hay sử dụng ngoại ngữ khi suy nghĩ. Tôi có chút ít tự tin khi giải đáp những câu đố mẹo. Sự sáng trí và cách thức để sự kiện này xuất hiện thường xuyên là thứ mà tôi học được từ GS Vervaeke. Có một câu đố nổi tiếng về “4 đường, 9 điểm”.
Không đặt bút lên, bạn hãy vẽ 4 đường đi qua 9 điểm trong hình vẽ dưới đây:
cái hình upload lên github
Đây là một câu đố hay vì lời giải cũng hết sức thú vị. Tôi từng thất bại khi giải câu đố này. Theo như GS Vervaeke giải thích thì một nguyên nhân khiến cho lời giải bất ngờ đến vậy vì con người thường đặt mình trong một khung suy nghĩ sẵn có mà họ tiếp nhận. Cái khung suy nghĩ này thực ra là khá tốt vì nó giúp ta lọc đi những giải pháp vô nghĩa, tuy nhiên nó cũng khiến cho chúng ta mắc kẹt khi những ý kiến có sẵn nhưng không giải quyết được vấn đề. Một thí nghiệm nổi tiếng tương tự là The monkey business illusion mà tôi biết đến nhờ GS Peterson và các bài giảng của ông. Như tôi nghĩ thì nếu bạn thất bại khi làm theo yêu cầu của thí nghiệp thì bạn sẽ trả lời các câu hỏi ở cuối thí nghiệm tốt hơn. Điều này có liên hệ gì với tôi? Ngay với công việc hàng ngày là viết các dòng code để xây lên các trang web, không dưới 1 lần tôi bị mắc kẹt. Nó không phải vì tôi không có giải pháp mà vì giải pháp của tôi hoặc là sai, hoặc là không phù hợp hoặc đòi hỏi sự đánh đổi lớn. Tôi mắc kẹt trong giải pháp mà mình tìm ra. Nhưng nếu tôi có thể bỏ việc ở đó và đi dạo một chút hoặc tôi có được người đồng nghiệp tốt, có thể lắng nghe phân tích mà không vội kết luận hay chỉ trích thì khả năng tìm ra một phương án tối ưu là tốt hơn. Đây là điều tốt nhưng không phải lúc nào tôi cũng tìm được một người đồng nghiệp hay thời gian để đi dạo. Cái mà tôi muốn đạt được cho mình là khả năng tách ra khỏi khung suy nghĩ của chính mình để nhìn vào vấn đề với một con mắt khác, một đường hướng khác. Đây không đơn thuần là mong muốn cho bản thân tôi trong công việc, đây còn là mong ước mà tôi muốn thực hiện trong cuộc sống hàng ngày vì không ít lần tôi bị mắc kẹt trong vấn đề hay chính giải pháp của chính mình.
Lúc nhỏ tôi có những cơn hoảng loạn thần kinh một phần vì chứng Rối loạn Tiền đình, một phần vì những biến cố không êm đẹp trong gia đình, một phần khác có lẽ là bẩm sinh. Khi lớn hơn một chút, tôi bắt đầu sợ ma, sợ kẻ trộm, sợ côn trùng, sợ chết, sợ bị chê bai, sợ bị ăn đòn, sợ bị mất đồ, sợ bị điểm kém, sợ bị sì ke vì dính kim tiêm (quanh nhà tôi hồi đó nhiều nghiệm hút ma tuý), sợ không lên được lớp… Với thời gian nhiều nỗi sợ lúc thơ bé biến mất, thay vào đó là những nỗi sợ mới. Tôi sợ không có tiền, sợ không có việc làm, sợ không có người yêu, sợ không có nhà, sợ không có xe, sợ không có bạn bè, sợ không có ai thương, sợ không ai tin tưởng, sợ bị cô lập, sợ không có ai để chia sẻ, sợ bị vu oan, sợ bị lợi dụng… Những nỗi sợ này tạo ra lo lắng và bi quan thường trực. Tôi là một người bi quan. Tôi từng được nhận đinh là sợ linh tinh, nhát chết, hèn, kém cỏi… Cá nhân tôi biết với một cơ thể bệnh yếu, một tinh thần bất ổn thì những suy nghĩ này chắc chắn sẽ xảy ra và những người lạ (hay người thân) sẽ chỉ có thể phê bình và phán xét tôi khi tôi chia sẻ những thứ quan trọng và sâu kín với họ. Cho đến thời điểm hiện tại, tôi đã vượt qua nhiều nỗi sợ. Những nỗi sợ có giải pháp như sợ không có tiền có thể được đối phó bằng cách tìm cho mình công ăn việc làm nhưng những nỗi sợ như sợ chết, sợ bệnh tật, sợ sự vô dụng của cơ thể khi tuổi già, sợ những tại nạn bất chợt làm cơ thể đau đớn là những thứ không có giải pháp triệt để. Tôi chỉ có thể học cách sống với nó. Như tôi quan sát thì những thiền sư không có trong mình nỗi sợ này. Đây là niềm mong muốn khác của tôi.
Ảnh thiền sư Thích Quảng Đức tự thiêu
Một cuộc sống đau khổ không đáng sợ bằng một cuộc sống vô nghĩa. Có gì tệ ở một cuộc sống vô nghĩa? Một người sống vô nghĩa sẽ bị phụ thuộc vào cảm giác hạnh phúc. Người đó sẽ săn đuổi hạnh phúc. Như đã nói ở trên cảm giác hạnh phúc không tồn tại lâu vì có lẽ đó là bản chất con người. Do vậy mà người ta lại phải đi tìm hạnh phúc mới, khác biệt với nguồn hạnh phúc cũ hoặc to lớn hơn nguồn hạnh phúc cũ. Đó là một cuộc rượt đuổi không có đích đến. Cái cuộc rượt đuổi hạnh phúc không ngừng nghỉ đó, phương Tây gọi là “chủ nghĩa khoái lạc”. Một phụ phẩm khác của chủ nghĩa khoái lạc là chủ nghĩa tiêu dùng vì tiêu dùng cũng là thứ đem lại hạnh phúc, chí ít là cho những ai thiếu thốn những thứ mà họ muốn được tiêu dùng. Cá nhân tôi không ghét 2 chủ nghĩa này. Là một con người, tôi cũng chấp nhận hạnh phúc khi tôi có cơ hội để hạnh phúc, nhưng tôi không theo đuổi hạnh phúc. Điều tương tự cũng đúng với tiêu dùng. Tiêu dùng là thứ cần thiết để duy trì cơ thể và có lẽ là các mối liên kết xã hội. Tôi cũng không phủ nhận những lúc tôi mua những món đồ chỉ đơn giản vì ưa thích. Tuy nhiên điều này được giữ ở mức tối thiểu. Mọi thứ khi được tiêu dùng mang ý nghĩa công cụ phục vụ mục đích sinh tồn của tôi. Những món đồ hay dịch vụ vượt ra ngoài điều này đều được cân nhắc lại cẩn thận. Ý nghĩa mới là điều đặc biệt cho sự sống. Tôi không muốn trích các triết gia hay các nhà tư tưởng lớn để nói về ý nghĩa của cuộc sống. Đây là câu chuyện của cá nhân tôi nên nó phải xuất phát từ tôi. Như đã nói ở trên, cuộc sống của tôi gắn liền với sợ hãi và lo lắng, nhưng khi tôi hành động theo mục tiêu nào đó, tôi quên mất sự sợ hãi và lo lắng. Mục tiêu thường mang trong nó một ý nghĩa phản ánh giá trị của những hành động nhắm đến các mục tiêu này. Mục tiêu chạy marathon của tôi là cải thiện hô hấp và tim mạch, giảm stress và cảm thiện cảm xúc. Vì tôi không muốn sống vô nghĩa!